Sau khi nhập Niến Bàn, tại Câu Xá Hi có
một ông già nhờ Ngài A Thù hướng dẫn thấu triệt đựơc giáo pháp nên thường cúng
dường chư Tỳ kheo.
Ông Trưởng giả ấy có một người con và một
người cháu kêu bằng cậu. Khi ông Trưởng giả gần lâm chung, mời Ngài A Thù đến
chỉ chỗ cất vàng bạc và thưa với Ngài A Thù rằng:
- Sau khi con qua đời, hai đứa nhỏ này,
đứa nào tín mộ Phật – Pháp thì Ngài chỉ chỗ cất của báu đó cho nó...
Vị Trưởng giả ấy thưa xong liền trúc hơi thở
cuối cùng!
Sau một thời gian khi hai đứa trẻ thành niên,
Ngài A Thù xét thấy đứa cháu của ông Trưởng giả lại mến mộ Phật – Pháp, còn đứa
con ông ta lại hoang nghịch nên Ngài A Thù kêu người cháu của ông ta đến chỉ
chỗ chôn cất của báu ấy.
Con ông Trưởng giả nghe được việc đó, liền
đến Ngài A Nan hỏi: - Của cha mẹ để lại, ai được hưởng?
Ngài A Nan trả lời: - Dĩ nhiên là con
của người ấy được hưởng!
Con ông Trưởng giả liền thưa lại rằng: -
Như vậy tại sao của cha tôi để lại mà ông A Thù lại cho con của em gái cha
tôi?
Ngài A Nan nghe xong liền tức tốc đến chỗ
Ngài A Thù và dồn dập hỏi Ngài A Thù rằng: -Tạo sao. . . tại sao? Như vậy
Ngài chẳng phải Sa Môn, không phải Thích chủng tử. . .
Ngài A Thù bình tỉnh trả
lời: - Tôi là Thích chủng tử, tôi theo đúng kinh luật để quyết định
việc đó.
Ngài A Nan giận quá hỏi vặn: - Kinh
luật nào dạy như vậy?. . .
Khi đó các Trưởng lão Tỳ kheo đều công nhận
Ngài A Thù là phải. Ngài A Nan và Ngài A Thù bất đồng ý kiến với nhau,
không hòa hợp với nhau phải trải qua một thời gian khá lâu nên trong trú xứ của
hai Ngài ở không có Bố Tát, Tự Tứ được.
Vấn đề ấy được đồn khắp các nơi, tất cả mười
phương thiện tín đều khổ tâm và đau buồn nhất là các thiện nam tín nữ trong
dòng họ Thích.
Một hôm tình cờ ông La Hầu La du hóa đến
thành Ca Duy La Vệ, các nữ Thích chủng tử đều cùng nhau ra nghinh đón La Hầu La
để trình bày sự việc ấy và thưa rằng: -Tại sao Thế Tôn mới Nê hoàn ( nhập diệt)
chưa bao lâu mà chúng Tăng lại không hòa hợp với nhau như thế? Chúng tôi tha
thiết muốn chư Tăng hòa hợp lại mà không biết làm cách nào. Xin La Hầu La chỉ
vẽ cho.
Ông La Hầu La hướng dẫn: - Việc đó
dễ lắm. . . Khi nào Ngài A Nan đến đây các người ai có con nhỏ khi ra nghinh
đón Ngài nhớ bồng theo, vừa gặp Ngài thì bỏ nó xuống đất. Dĩ nhiên là nó khóc.
. . Chắc chắn Ngài A Nan hỏi tại sao các người bỏ nó xuống đất và Ngài sẽ bảo
bồng chúng nó lên. Khi ấy quý vị thưa rằng khi nào Trưởng lão (A Nan) và Ngài A
Thù hòa hợp thì chúng tôi mới bồng chúng nó lên. . .
Ông La Hầu La hướng dẫn như vậy xong, tiếp
tục lên đường du hóa. Sau đó mấy hôm, Ngài A Nan đến, 500 Thích nữ bồng con ra
nghênh đón Ngài và thi hành đúng như La Hầu La hướng dẫn, khi Ngài A Nan bảo
bồng lên và nói:
- Tại sao con các người đẻ ra, bỏ nó khóc như
vậy, các người không đau ruột? ! Các tín nữ dòng họ Thích liền thưa lại
rằng:
- Dĩ nhiên là chúng tôi đau ruột, nhưng
“không đau ruột bằng. . .”
Ngài A Nan cảm thông được nổi đau lòng của
500 Thích nữ. . . nên quay về yêu cầu họp chúng để giải quyết vấn đề với Ngài A
Thù. Khi họp cúng tiền phương tiện xong. Ngài Ưu Ba Ly hỏi: - A Thù
có tội gì?
Ngài A Nan liền thủ lễ thưa rằng: - Ngài
A Thù không có tội gì, chính tôi mới là người có tội. . .
Khi nghe Ngài A Nan thưa như vậy, trong chúng
xúc động đến nỗi đều chảy nước mắt. Ngài A Nan liền đến trước Ngài A Thù để sám
hối.
Vài ngày sau tin ấy loan truyền khắp nơi,
mười phương thiện tín,nhất là các Thích nữ lũ lượt kéo nhau đến đảnh lễ cúng
dường vui mừng không xiết kể! ! !
Ðổng Minh
“Nhập thế thì phải tùy thời tùy duyên, đó là điều không thể chê trách,
nhưng nếu vì danh vì lợi mà sân si tật đố, phá hòa hiệp Tăng, đó là điều đau
buồn nhất của hàng Phật tử, mà cũng là kẻ đắc tội với Phật Pháp”.